789

Các phát hiện mới về virut

Thứ Sáu, 01/03/2019 09:36 AM (GMT+7)

Virut lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1892, trải qua hơn 1 thế kỷ tìm hiểu và phân tích nhưng thậm chí đến nay, các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục khám phá những bí mật mới về loài vật nhỏ bé này.

Virut là các thực thể sống nhỏ bé nhất không có cấu tạo tế bào, chỉ có biểu hiện sống khi ký sinh trong vật chủ thích hợp. Vì virut phải ký sinh để tồn tại và phát triển đồng thời khi virut ký sinh trong cơ thể vật chủ sẽ gây bệnh nên người ta còn định nghĩa virut là tác nhân truyền nhiễm.

Từ khi phát hiện năm 1892 đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện khoảng 5.000 loại virut được miêu tả chi tiết và còn có tới hàng triệu dạng virut khác nhau. Virut được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên trái đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học.

Virut không tự sinh sản, thay vào đó, chúng được tự nhân lên bằng các phần vật chất di truyền được tạo nên từ DNA hoặc RNA là những phân tử dài mang thông tin di truyền và một lớp vỏ protein có chức năng bảo vệ hệ gene - một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài vỏ protein khi virut ở ngoài tế bào.

photo1551534521318-1551534522070-crop-1551534576868458284653

Mặc dù hiểu biết về cơ chế tự nhân lên của chúng nhưng chính xác làm thế nào và tại sao virut thực hiện được các phương thức di truyền ấy vẫn là bí ẩn mà các nhà khoa học tiếp tục miệt mài nghiên cứu để làm sáng tỏ nguyên nhân các căn bệnh. Dưới đây là những phát hiện mới về virut được các nhà khoa học công bố gần đây.

Bộ nhớ của con người đến từ một virut cổ đại

Con người đều có ý thức nhưng giải thích tại sao và bằng cách nào các suy nghĩ của chúng ta xảy ra luôn là bí ẩn khoa học.

Nghiên cứu đăng tải trên Tạp chí Celol cho thấy gene có trách nhiệm cho khả năng suy nghĩ của con người có thể đã được tạo ra từ một bệnh nhiễm virut cổ đại. 2 bài báo đăng tải trên Tạp chí này thảo luận về nguồn gốc của gene Arc được tìm thấy ở động vật bốn chân, là một mã di truyền còn sót lại từ một loại virut cổ đại.

Hơn nữa, họ cũng thấy rằng gene này rất quan trọng đối với các tế bào thần kinh trong việc chứa thông tin di truyền và gửi nó xung quanh các tế bào thần kinh bằng các viên nang kiểu virut nhỏ.

Những gói thông tin này được cho là thiết yếu trong cách các tế bào thần kinh truyền thông tin và có thể chịu trách nhiệm về những suy nghĩ của chúng ta. Elissa D.Pastuzyn - tác giả nghiên cứu cho biết: “Phân tích tiến hóa cho thấy gene Arc có nguồn gốc từ loài động vật có xương sống của nhóm Ty3/gypsy retrotransposons cũng là tổ tiên của retrovirus (loại virut có vật chất di truyền RNA)”. Các nhà khoa học tin rằng từ 40 - 80% gene người đã được phát triển nhờ các virut cổ đại.

Virut rơi xuống từ bầu trời

 Một bí ẩn lâu đời về virut cuối cùng đã có câu trả lời vào năm 2018: Lý do tại sao các virut tương tự nhau về mặt di truyền có thể được tìm thấy dù cách xa nhau trên trái đất? Điều này được cho do virut di chuyển trong khí quyển trên các luồng không khí.

Trong một bài báo xuất bản vào tháng 1 mới đây trên Tạp chí Sinh thái học đa ngành, các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng virut có thể đã “quá giang” trên các hạt bụi hoặc hơi nước và bay lên tầng khí quyển đối lưu tự do rồi cuối cùng rơi xuống một nơi hoàn toàn mới.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng khi virut đạt đến mức của tầng đối lưu tự do được tìm thấy ở độ cao khoảng 8.200 - 9.800 feet (tương đương 2.460 - 2.940m) trên bề mặt trái đất, chúng có thể di chuyển xa hơn nhiều so với khả năng ở độ cao thấp hơn.

Các nhà nghiên cứu cho biết, các tầng đối lưu tự do đang chứa rất nhiều virut và do tác động của các luồng không khí bên trong nó, 1 mét vuông bề mặt trái đất có thể bị hàng trăm triệu virut rơi xuống mỗi ngày.

Virut Herpes có thể là nguyên nhân phát triển bệnh Alzheimer

Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Neuron, các nhà nghiên cứu cho biết, họ có bằng chứng cho thấy loại virut Herpes phổ biến có thể đóng vai trò trong việc phát triển căn bệnh mất trí nhớ và ảnh hưởng đến chức năng nhận thức của con người.

Các nhà nghiên cứu đã xem xét dữ liệu về 622 bộ não từ những người có dấu hiệu của bệnh và 322 bộ não từ những người không bị ảnh hưởng nhiều từ căn bệnh này.

Kết quả cho thấy, não bộ của người mắc bệnh Alzheimer có mức độ virut Herpes cao gấp 2 lần so với những người không mắc bệnh. Một trong những lý thuyết nổi bật cho rằng bệnh Alzheimer có thể bắt đầu trong não như một phản ứng đối với chấn thương do virut gây ra.

Một giả thuyết khác cho thấy bệnh Alzheimer là một sự pha trộn của quá trình phát triển bệnh trong não. TS. Joel Dudley - tác giả nghiên cứu tin rằng phát hiện này có thể giúp các nhà khoa học xác định dấu ấn sinh học virut trong não giúp chẩn đoán bệnh và đánh giá nguy cơ bệnh của 1 người.

Có thể đánh thức Herpesvirus

Nhiễm virut Herpes chiếm tỷ lệ khá phổ biến với hơn 80% người dân trên thế giới bị nhiễm loại virut này.

Virut Herpes thường ở chế độ ngủ đông trong cơ thể, điều này có lợi cho những người bị nhiễm virut vì chúng không gây ra bất cứ triệu chứng nào trong khi ngủ đông. Tuy nhiên, cũng vì thế mà hệ thống miễn dịch cũng khó khăn trong việc tìm ra và loại bỏ virut này khi chúng chưa hoạt động.

Vào tháng 10/2017, các nhà nghiên cứu đã công bố trên Tạp chí PLOS Pathogens rằng họ đã phát hiện ra cách xâm nhập chế độ ngủ đông của virut Herpes và tìm thấy các protein quan trọng liên quan đến việc đánh thức virut này. Các phát hiện có ý nghĩa quan trọng trong việc điều trị hay ngăn ngừa nhiễm trùng Herpes.

Phạm Huyền

Cùng chuyên mục

Nhân ngày tránh thai thế giới 26/09, cùng tìm hiểu về màng phim tránh thai

Màng phim tránh thai VCF (còn gọi là film tránh thai hay màng tránh thai) là lựa chọn biện pháp tránh thai. Nhưng màng phim...

Để cuộc nói chuyện về giới tính với con trở nên tinh tế

Giáo dục giới tính cho trẻ giúp trẻ hiểu rõ về bản thân, có khả năng tránh khỏi nhiều nguy cơ xấu. Song trong...

Những sai lầm của cha mẹ khi giáo dục giới tính cho trẻ

Xung quanh việc giáo dục giới tính cho trẻ, bản thân cha mẹ vẫn có những hiểu nhầm, từ đó việc làm thế nào...

Con xuất hiện xu hướng đồng tính, phụ huynh cần làm gì?

Mỗi cá nhân sẽ có 4 đặc điểm: Giới tính sinh học, bản dạng giới, thể hiện giới, xu hướng tính dục. Các...