Nỗi lo mang thai và nạo phá thai không an toàn ở lứa tuổi vị thành niên và thanh niên

Thứ Sáu, 28/12/2018 11:53 AM (GMT+7)

Những năm qua, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) ở nước ta đã thu được nhiều kết quả đáng trân trọng. Tuy nhiên, chính sách công tác này vẫn còn nhiều thách thức đòi hỏi cần phải có những nhóm giải pháp đồng bộ và sự tham gia tích cực của các cấp, các ban ngành liên quan.

 Chăm sóc sức khỏe sinh sản vẫn còn nhiều thách thức

Ngày nay, tình trạng sức khỏe mẹ và trẻ nhỏ đã được cải thiện nhiều. Tuy nhiên, tai biến sản khoa và tử vong mẹ vẫn còn có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng, miền. Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi tuy đã có chiều hướng giảm mạnh, nhưng tử vong sơ sinh còn cao (chiếm khoảng 70% số ca tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, 50% số ca tử vong trẻ em dưới 5 tuổi). Vẫn còn nhiều hạn chế trong khả năng tiếp cận và chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tình trạng đẻ tại nhà, đẻ không có cán bộ được đào tạo đỡ còn khá phổ biến ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh sau đẻ không được thăm khám vẫn còn chiếm ưu thế.

7854491-copy-1545057449716838699727

Phương tiện tránh thai vẫn chưa được phổ cập. Vận trình cung ứng vẫn còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, những năm tới (2017-2030), số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ tang mạnh (dự kiến đạt gần 27 triệu người vào năm 2020), nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai, nhất là các biện pháp tránh thai hiện đại sẽ tiếp tục tăng và luôn giữ ở mức cao. Hiện trạng có thai ngoài ý muốn dẫn tới phá thai còn nhiều, chiếm tỉ lệ cao ở độ tuổi thành niên, vị thành niên. Tình trạng phá thai lặp lại còn khá phổ biến, phá thai không an toàn vẫn còn xảy ra. Tỷ lệ vô sinh còn cao, nhưng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ cho người vô sinh còn hạn chế. Tình trạng nhiễm khuẩn đường sinh sản khá phổ biến, bệnh lây truyền qua đường tình dục – HIV/AIDS và ung thư đường sinh sản còn cao. Việc khám, phát hiện, điều trị, theo dõi và tư vấn sau điều trị chưa được quan tâm đúng mức.

Tầm soát và chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh và sơ sinh để phát hiện sớm và dự phòng ung thư đường sinh sản chưa được triển khai rộng rãi. Sự kết nối giữa hệ thống dịch vụ chăm sóc SKSS và phòng, chống HIV/AIDS còn hạn chế. SKSS, sức khỏe tình dục (SKTD) ở các nhóm đối tượng đặc thù còn nhiều thách thức. Tình trạng quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai, mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị thành niên và thanh niên có xu hướng gia tăng. Hiểu biết, hành vi về SKSS, SKTD của vị thành niên và thanh niên còn nhiều hạn chế. Kiến thức, thái độ và hành vi về DS-SKSS trong cộng đồng và ngay cả cán bộ y tế còn chưa cao. Dịch vụ chăm sóc SKSS nam giới, người cao tuổi, người di cư chưa đáp ứng được nhu cầu. Nhận thức về giới trong cộng đồng rất hạn chế, thiếu hiểu biết về ảnh hưởng của bạo lực tình dục tới SKSS, SKTD của nạn nhân; thiếu hiểu biết về mối liên quan giữa lạm dụng chất gây nghiện và bạo hành giới; quan niệm lạc hậu về vai trò của nam và nữ, phụ nữ thiếu hiểu biết về quyền của bản thân.

Giáo dục đẩy mạnh nâng cao nhận thức người dân, tuyên truyền tiếp cận thiết bị hiện đại

Xét thực tế, nhiều thách thức được đặt ra trước sự phát triển manh mẽ của khoa học kỹ thuật và công đồng, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc SKSS. Vị thành niên/thanh là dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, cần nhận được sự quan tâm nhiều hơn. Họ đã trở thành nhóm mục tiêu của các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về SKSS ở Việt Nam.

Vị thành niên/thanh niên Việt Nam ngày nay đã có sự thay đổi về tập quán và văn hóa, như lập gia đình ở độ tuổi muộn hơn và gia tăng quan hệ tình dục trước hôn nhân. Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ các viêm nhiễm lây truyền qua đường tình dục đã tăng lên 10 lần trong thập kỷ qua. Dường như tình trạng này chưa được cải thiện, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi mà số công nhân lao động nhập cư sống xa nhà, xa người thân đang làm tăng nguy cơ lây nhiễm nhiều hơn so với trước đây.

Vấn đề HIV/AIDS tại Việt Nam đang ở mức báo động đỏ. Số ca nhiễm HIV/AIDS theo báo cáo hiện nay thấp hơn so với số thực tế. Nhiều phương tiện thông tin đại chúng thường đã tích cực đề cập đến HIV/AIDS cùng với các tệ nạn xã hội như nghiện hút hay mại dâm. Tuy nhiên, điều ấy lại vô tình tạo nên sự kỳ thị trong xã hội. Một thực tế đáng chú ý là “nạn dịch” này có nguy cơ sẽ lây sang rất nhiều người khác thông qua những khách hàng là gái mại dâm, đặc biệt cho đối tượng là công nhân lao động xa nhà. Do đó, nhiều chị em quan hệ tình dục khả năng cao lây nhiễm HIV và từ đó có khả năng lây truyền cho con nếu có thai.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất mà Việt Nam đang phải đối mặt trong lĩnh vực SKSS là vấn đề nạo phá thai. Ý thức phòng tránh thai kém cùng với nhận thức không đầy đủ về nguy cơ của phá thai, đặc biệt là phá thai không an toàn và cũng có thể là việc sử dụng các biện pháp tránh thai không thường xuyên được phản ánh thông qua tỷ lệ nạo phá thai cao và tỷ lệ này đang tiếp tục gia tăng ở Việt Nam.

Mọi người vẫn chưa thay đổi được hành vi của mình. Trong khi truyền thông đại chúng vẫn tích cực tuyên truyền và phổ cập nhận thức. Nhiều bạn gái trẻ thiếu kiến thức cơ bản về tình dục hoặc không tin tưởng vào việc dùng bao cao su hay không yêu cầu bạn tình sử dụng bao cao su. Nạo phá thai vẫn còn nhiều cái nhìn tiêu cực. Điều ấy dẫn đến hiện trạng nhiều bạn gái tìm đến các cơ sở kém uy tín để phá chui.

Kết hợp các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số

Từ những hậu quả trên, các bậc phụ huynh phải làm gì để giáo dục trẻ: Phụ huynh nên quan tâm hơn tới cách giáo dục con; phải dạy cho con kiến thức kỹ năng về tình dục giới tính, từ chối và phản kháng khi bị cưỡng chế tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm... Tùy theo lứa tuổi mà có phương thức, nội dung phù hợp. Các giờ ngoại khóa tại trường học về chủ đề giáo dục giới tính nên được phổ quát hơn. Tại nhà bố mẹ nên dành thời gian trò chuyện tâm sự, giữa mẹ với con gái, bố với con trai. Đây chính là chìa khóa giúp con biết cách tự vệ, giữ gìn bản thân ở mọi hoàn cảnh, khi người khác có cái nhìn khiếm nhã, có động tác đụng chạm, người lạ rủ đi chơi, dụ cho ăn uống, cho quà... Làm sao để trang bị cho trẻ vị thành niên phương pháp tự bảo vệ bản thân mình; những cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống để giúp con tránh được những nguy cơ có thể đến với chúng.

Với mục đích khắc phục hiện trạng trên, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011- 2020 với nhiều nội dung quan trọng. Chiến lược xác định bảy giải pháp cụ thể, từ tăng cường và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông đối với tất cả các nhóm đối tượng, tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi và vị thành niên; nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục; nâng cao chất lượng dịch vụ dành cho người cao tuổi, trẻ vị thành niên, chất lượng dịch vụ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện đào tạo và tập huấn theo địa chỉ, theo nhu cầu, nhất là vùng sâu, vùng xa...

Những giải pháp với mục đích cải thiện tình trạng SKSS, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc SKSS trong Chiến lược không tập trung ưu tiên một nhóm đối tượng nào, mọi nhóm đối tượng đều được quan tâm bình đẳng và mọi giải pháp đều được đặt trong một kế hoạch tổng thể và toàn diện. Ðó là sự kết hợp giữa những nhóm giải pháp về cơ chế quản lý, về xây dựng văn bản chính sách pháp luật, giải pháp về tài chính, phương hướng đào tạo cán bộ chuyên môn; cung ứng dịch vụ và xã hội hóa công tác chăm sóc SKSS. Như vậy, chất lượng SKSS nói riêng và sức khỏe người dân nói chung mới có thể được cải thiện và nâng cao.

Phạm Huyền

Cùng chuyên mục

Vĩnh Phúc tổ chức Hội nghị cung cấp kiến thức về bệnh Thalassemia cho cán bộ Y tế, dân số các cấp năm 2024

Sáng ngày 17/4, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng và Cung ứng...

Hội thảo khoa học “Già hóa dân số ở Việt Nam - Thực trạng, xu hướng và khuyến nghị chính sách”

Sáng 10/4, tại thành phố Ninh Bình, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Trung ương Hội Người cao tuổi Việt...

Ra quân điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024

Nhằm thu thập thông tin về dân số, nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, lễ ra...