Thực hư việc dùng nhân sâm phòng, chữa bệnh ung thư

Chủ Nhật, 26/04/2020 07:45 AM (GMT+7)

Đối với bệnh ung thư, vai trò hỗ trợ điều trị của nhân sâm vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa sáng tỏ.

nhan-sam

Nhân sâm được biết đến từ sách “Thần nông bản thảo”. Tài liệu ghi chép, nhân sâm vị ngọt, tính hơi lạnh, tác dụng cải tiến chức năng lục phủ ngũ tạng, loại bỏ những điều không tốt, sáng mắt, bổ trí não, thông minh, giúp cơ thể nhẹ nhõm. Nhân sâm được sử dụng cho mục đích tăng cường sức khỏe, được xếp vào một trong bốn loại thuốc quý (Sâm- Nhung- Quế - Phụ) từ lịch sử hơn 2.000 năm trước.

Đối với bệnh ung thư, vai trò hỗ trợ điều trị của nhân sâm vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa sáng tỏ. 

Một số đặc điểm của nhân sâm

Hiện nay, trên thế giới có 11 loài nhân sâm thuộc chi Panax đã được nhận dạng. Nhân sâm châu Á gồm Panax notoginseng, Panax japonica và Panax ginseng; Nhân sâm ở châu Mỹ như Panax quinquefolius. Nhân sâm có thành phần hóa học đa dạng.

Ngoài các protein và carbohydrate, chúng còn chứa tinh dầu dễ bay hơi, các ginsenoside (ginseng saponins), amino acid, vitamin và acid béo. Ginsenoside là thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ, có hoạt tính sinh học cao, đã có hơn 100 loại ginsenoside được phân lập từ các loại nhân sâm khác nhau.

Nhân sâm châu Á Panax ginseng chứa 38 loại ginsenoside khác nhau, trong khi Nhân sâm Mỹ Panax quinquefolius chỉ có 19 loại ginsenoside. Hơn nữa, Panax ginseng cũng chứa nhiều hoạt chất không là saponin hơn bao gồm hợp chất K, acid polysaccharide và hợp chất polyethylene, được cho rằng có lợi với sức khỏe hơn so với Panax quinquefolius. Tới nay, Panax ginseng được tiến hành nghiên cứu nhiều và sử dụng phổ biến nhất trong các loại nhân sâm.

Các yếu tố được chứng minh có thể ảnh hưởng tới hàm lượng ginsenoside trong nhân sâm bao gồm độ tuổi, loại, đất trồng, ánh sáng và cách chế biến. Nhân sâm tươi, thu hoạch dưới 4 năm có tác dụng dược lý thấp nhất, thường được sử dụng làm nguyên liệu nấu ăn. Rễ của Panax ginseng được thu hoạch sau 5 năm hoặc hơn chứa khoảng 1-2% ginsenoside.

Phân loại nhân sâm theo cách chế biến bao gồm: bạch sâm, hồng sâm, hắc sâm và sâm tươi. Hồng sâm có màu nâu đậm được chế biến bằng cách chọn những củ sâm to, trên 6 năm tuổi, được rửa sạch và hấp ở nhiệt độ 98 -100 độ C, sau đó sấy khô đến khi độ ẩm dưới 15%. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn làm hồng sâm thì chế biến thành bạch sâm, được phơi dưới nắng 7-15 ngày, có màu trắng, độ ẩm dưới 15%. Trong khi hồng sâm chưng cất và sấy khô một lần, hắc sâm cần phải được chưng cất và sấy khô 9 lần. Còn sâm tươi là sâm được thu hoạch sau 4-6 năm, chưa được sơ chế, có độ ẩm 75%.

Nghiên cứu tác dụng của nhân sâm trên ung thư

Tiềm năng kháng tế bào ung thư của các ginsenoside trong nhân sâm phụ thuộc vào công thức hóa học, cấu trúc không gian, số phân tử đường gắn vào các vị trí trên khung saponin. Hai phần aglycon chính của saponin trong cấu trúc của nhân sâm là protopanaxadiol và protopanaxatriol. Phần R1, R2, R3 được gắn với các loại đường khác nhau.

Dù có nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng kháng tế bào ung thư của ginsenoside hay chiết xuất nhân sâm trên các dòng tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, song vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng nào cho thấy hiệu quả điều trị bệnh ung thư của chúng. Tuy vậy, đã có một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy nhân sâm được xem như một yếu tố hỗ trợ điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư.

Nhân sâm có làm giảm nguy cơ mắc ung thư?

Nghiên cứu bệnh – chứng trên 1.987 người bệnh Hàn Quốc cho thấy sử dụng hồng sâm giúp giảm nguy cơ mắc phải ung thư ác tính bao gồm ung thư phổi và ung thư đại trực tràng. Với các loại ung thư vú, tử cung, tuyến giáp hay bàng quang trên phụ nữ, kết quả phân tích không cho thấy nó làm giảm nguy cơ.

Kết quả từ một nghiên cứu khác trên 4.634 người Hàn Quốc 40 tuổi trở lên cho thấy những người dùng nhân sâm có tỷ lệ mắc ung thư thấp hơn so với những người khác. Ngoài ra, dùng hồng sâm 01 g/tuần trong vòng 3 năm liên tiếp đối với người bệnh bị viêm dạ dày mãn tính có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư đường tiêu hóa trong vòng 8 năm theo dõi sau đó.

Tuy vậy, cạnh những nghiên cứu cho thấy nhân sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư, có một số nghiên cứu không cho thấy mối liên kết này tồn tại. Phân tích gần 75.000 phụ nữ độ tuổi từ 40 đến 70 trong một nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy không có mối liên kết giữa giảm hay tăng nguy cơ mắc ung thư tiêu hóa và sử dụng các loại nhân sâm khác nhau.

Một phân tích khác trên hơn 35.000 nam giới độ tuổi từ 50 đến 76 của nghiên cứu VITAL, cho thấy nhân sâm không ảnh hưởng tới việc tăng hay giảm nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến.

Nhân sâm có làm giảm tỷ lệ tử vong của người bệnh ung thư?

Một nghiên cứu của nhóm tác giả Cui Y. và cộng sự đã đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên 1.455 người bệnh ung thư vú thông qua bộ câu hỏi khảo sát để xác định các đầu ra liên quan đến ung thư vú. Số người bệnh này được tuyển chọn từ trung tâm Ung thư vú ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ 08/1996 đến tháng 3/1998.

Kết quả cho thấy những phụ nữ ung thư vú dùng nhân sâm bên cạnh phẫu thuật/xạ trị/hóa trị có nguy cơ tái phát khối u và nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người chưa từng dùng nhân sâm.

Dùng hồng sâm với mức liều 4,5g mỗi ngày trong vòng 6 tháng sau khi phẫu thuật và hóa trị trên 42 người bệnh ung thư dạ dày giai đoạn III cũng được chứng minh làm giảm đáng kể tái phát khối u trong 4,5 năm theo dõi sau đó.

Ở một nghiên cứu khác trên hơn 6.000 người bệnh ung thư tuổi trên 55, theo dõi trong 18 năm của nhóm tác giả Sang-Wook Yi và cộng sự cho thấy: nhân sâm làm giảm tỷ lệ tử vong trên nam giới, nhưng không giảm trên nữ giới.

Nhân sâm liên quan ra sao đến chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư?

Cũng đã có một số nghiên cứu đánh giá vai trò của nhân sâm trong cải thiện chất lượng cuộc sống trên người bệnh ung thư, thông qua bộ câu hỏi khảo sát chất lượng cuộc sống người bệnh trên các tiêu chí về sức khỏe tinh thần, thể lực, thích nghi xã hội. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chưa thể đi đến thống nhất.

Nghiên cứu trên 1.455 người bệnh ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm ung thư tại Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy nhóm người bệnh dùng nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn so với nhóm người bệnh không dùng. Chất lượng cuộc sống được đánh giá thông qua bộ câu hỏi chất lượng chung gồm 74 tiêu chí (General Quality of Life Inventory - 74) được chia thành 4 nhóm: sức khỏe tinh thần, thể chất, khả năng hòa nhập xã hội và tình trạng kinh tế.

Còn một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, mù đôi khác được thực hiện trên 53 người bệnh ung thư. Số người bệnh chia làm hai nhánh, một nhánh dùng nhân sâm mức liều 03 g/ngày liên tiếp trong 12 tuần; nhánh kia dùng giả dược thay thế. Kết quả cho thấy nhóm người bệnh dùng nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn nhóm còn lại.

Nhân sâm mức liều 02 g/ngày trong vòng 16 tuần cũng được chứng minh cải thiện tình trạng ốm yếu, khả năng vận động và chất lượng cuộc sống trên người bệnh ung thư đại trực tràng được hóa trị với oxaliplatin.

Năm 2012, nhóm tác giả Bao PP và cộng sự đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nhân sâm trên hơn 4.000 phụ nữ từ trung tâm Ung thư vú tại Thượng Hải. Kết quả nghiên cứu này lại cho thấy sử dụng nhân sâm với thời gian từ 6 tháng, 18 tháng hay 36 tháng liên tục sau khi bị chẩn đoán ung thư vú không giúp cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho người bệnh

Như vậy, có thể nói cho đến hiện tại vẫn chưa có đủ bằng chứng lâm sàng để khẳng định tác dụng điều trị ung thư của nhân sâm. Đồng thời, các bằng chứng lâm sàng chứng minh khả năng hỗ trợ điều trị, giảm nguy cơ mắc bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư còn nhiều điểm bất đồng và chưa sáng tỏ.

Tuy nhiên, với các nghiên cứu trên, chúng ta cũng thấy rõ không thể phủ nhận hoàn toàn tiềm năng hỗ trợ điều trị ung thư của nhân sâm kh dùng ở mức liều hợp lý.

Vậy câu hỏi là: có nên sử dụng nhân sâm bên cạnh các liệu pháp điều trị chính thống khác trên người bệnh ung thư hay không? Nếu được sử dụng thì những nguy cơ người bệnh có thể gặp phải là gì?

Tác dụng phụ khi sử dụng nhân sâm

Nhân sâm khá an toàn khi sử dụng ở mức liều 03 g đến 09 g dạng bột rễ mỗi ngày. Nhưng nếutăng mức liều này lên hay sử dụng thời gian dài trên 6 tháng thì người sử dụng có thể gặp một số tác dụng không mong muốn.

Năm 1979, Siegel và cộng sự đã lần đầu tiên nhắc đến hội chứng "lạm dụng nhân sâm" với các biểu hiện kích thích thần kinh, rối loạn tâm thần, thay đổi hành vi, nổi ban đỏ ở da, tiêu chảy trên những người dùng nhân sâm ở mức liều 15 g mỗi ngày.

Những người khỏe mạnh sử dụng mức liều 200 mg dịch chiết nhân sâm mỗi ngày trong 3 tuần liên tiếp để hỗ trợ chức năng tim mạch thì bị nôn và buồn nôn.

Người bệnh đái tháo đường týp 2 có dùng nhân sâm thì bị hạ đường huyết, đau đầu, nhìn mờ, thiếu máu và kích động.

Theo Lee NH và cộng sự, những người bệnh dùng nhân sâm trong các thử nghiệm lâm sàng có thấy xuất hiện những triệu chứng khó chịu đường tiêu hóa như nôn, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy.

Người bệnh bị bệnh bạch cầu cấp được điều trị với imatinib nếu có dùng nhân sâm thì xuất hiện độc tính gan nặng. Vì vậy người bệnh cần tránh sử dụng đồng thời imatinib và Nhân sâm.

Tương tác thuốc khi dùng cùng với nhân sâm

Tương tác thuốc sử dụng cùng nhân sâm hiếm khi xảy ra, tuy nhiên một số nghiên cứu về dược lý cho rằng cần phải giám sát việc dùng đồng thời nhân sâm cùng với warfarin hay một số thuốc chuyển hóa qua CYP3A; hay các thuốc là cơ chất của P-glycoprotein (P-gp), một loại bơm tống thuốc từ tế bào trở lại lòng ruột. Cơ chất của P-gp bao gồm rất nhiều thuốc có khoảng điều trị hẹp như digoxin, các thuốc ức chế miễn dịch cyclosporin, tacrolimus, các thuốc điều trị ung thư như vincristin, paclitaxel, các thuốc kháng retrovirus như ritonavir, saquinavir…

Ngoài ra, nhân sâm có khả năng ảnh hưởng tới tác dụng của một số loại thuốc điều trị trầm cảm, thuốc hạ đường huyết, thuốc hạ lipid máu hay liệu pháp hormon. Những người bệnh đang được điều trị với thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông máu hay warfarin cũng không nên dùng nhân sâm, để tránh nguy cơ xuất huyết.

Ở mặt tốt, một số ginsenoside trong nhân sâm có tác dụng ngăn cản quá trình kháng thuốc trong phác đồ hóa trị liệu do tế bào ung thư gây ra. Ginsenoside Rh2 được chứng minh có khả năng làm tăng hiệu quả hóa trị liệu trên người bệnh ung thư. Tuy nhiên, ginsenoside Rh2 được hấp thu qua đường tiêu hóa rất kém (dưới 5%), điều này làm hạn chế hiệu quả sử dụng của nó.

Xin lưu ý, bài viết này chỉ được xem như một tài liệu tham khảo, cách tiếp cận và lý giải vấn đề trong bài viết không nhằm mục đích tuyên truyền chữa trị bất cứ bệnh nào. Trong mọi trường hợp điều trị bệnh, hãy tham vấn ý kiến chuyên môn y tế để hiểu rõ về bệnh tình của bạn.

Nhân sâm châu Á tốt hơn nhân sâm châu Mỹ

Nhân sâm được xếp vào một trong bốn loại thuốc quý (Sâm – Nhung – Quế – Phụ) từ hơn 2.000 năm trước. "Thần nông bản thảo" có ghi chép: Vị hơi ngọt, tính hơi lạnh, tác dụng cải tiến chức năng lục phủ ngũ tạng, loại bỏ những điều không tốt, sáng mắt, bổ trí não, tăng thông minh, giúp cơ thể nhẹ nhõm.

Hiện nay trên thế giới có 11 loài Nhân sâm thuộc chi Panax đã được nhận dạng. Nhân sâm châu Á gồm có Panax notoginseng, Panax japonica và Panax ginseng; Nhân sâm ở châu Mỹ như Panax quinquefolius. Nhân sâm có thành phần hóa học đa dạng. Ngoài các protein và carbohydrate, nhân sâm còn chứa tinh dầu dễ bay hơi, các ginsenoside (ginseng saponins), các amino acid, vitamin và acid béo. Ginsenoside là thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ, có hoạt tính sinh học cao. Đã có hơn 100 loại ginsenoside được phân lập từ các loại nhân sâm khác nhau.

Nhân sâm châu Á Panax ginseng chứa 38 loại ginsenoside khác nhau, trong khi nhân sâm Mỹ Panax quinquefolius chỉ có 19 loại. Hơn nữa, ngoài saponin, Panax ginseng còn chứa nhiều hoạt chất khác gồm hợp chất K, acid polysaccharide và hợp chất polyethylene, được cho rằng có lợi với sức khỏe hơn so với Panax quinquefolius. Cho tới thời điểm hiện tại, Panax ginseng được tiến hành nghiên cứu nhiều và sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các loại nhân sâm.

Hiện tại, nhân sâm được trồng chính ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và một số nước khác. Do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, nguồn nhân sâm trở nên khan hiếm hơn. Để đảm bảo nguồn cung, đáng buồn là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học kích thích dần trở nên phổ biến.

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đã được phát hiện trong một số sản phẩm nội địa Hàn Quốc có nguồn gốc sản xuất từ nhân sâm 4 - 6 tuổi trồng ở bốn vùng nông nghiệp khác nhau của tỉnh Jeonnam của Hàn Quốc.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng phát hiện ra 22 trong số 31 loại sâm nhập khẩu có nguồn gốc từ Canada, Hồng Kông, Trung Quốc, và Hàn Quốc chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật dễ bay hơi. Các sản phẩm này ở dạng rễ khô, bột, dịch chiết xuất lỏng hay cô đặc và được đóng gói ở Hoa Kỳ.

Chất pha trộn vào các thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ nhân sâm cũng là một vấn đề cần được quản lý chặt chẽ hiện nay. Tháng 08/2014, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cảnh cáo đối với một sản phẩm làm từ nhân sâm mang tên "Sâm Kianpi Pil". Sản phẩm này được quảng cáo có khả năng làm giảm bớt mệt mỏi, giúp thèm ăn, tăng cân, tăng sức đề kháng cho cơ thể, tăng cường miễn dịch, bổ trí não (Xem thêm: https://www.drugs.com/fda-alerts/2370-0.html). Tuy nhiên, phòng nghiên cứu của FDA đã phát hiện nó có chứa dexamethasone (thuốc chống viêm corticoid tổng hợp) và cyproheptadine (thuốc kháng histamin chống dị ứng). Những thành phần này không được khai báo trên nhãn sản phẩm.

Việc trộn tân dược vào các sản phẩm nhân sâm để người bệnh thấy được tác dụng nhanh chóng là hết sức nguy hiểm, liên quan đến tính mạng người dùng, cần được cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ.

Trần Thanh Tùng

Cùng chuyên mục

Ăn đậu phụ có làm giảm ham muốn tình dục ở nam giới

Đậu phụ là một nguồn thực phẩm phong phú về dinh dưỡng, chứa nhiều protein, canxi, sắt… Vậy ăn đậu phụ...

Quan niệm sai lầm về đặt vòng tránh thai

Nếu đang tìm kiếm một biện pháp bảo vệ an toàn, thuận tiện và lâu dài để tránh mang thai, thì vòng tránh thai có...

Nam giới có thể dùng thuốc tránh thai dành cho nữ giới không?

Thuốc tránh thai của nữ thường chứa các hormone estrogen và progestin, có tác dụng ngăn chặn sự rụng trứng và...

Kết hợp thuốc tránh thai hằng ngày và thuốc tránh thai khẩn cấp để tăng hiệu quả tránh thai?

Nhiều người đang sử dụng thuốc tránh thai hàng ngày, nhưng sau khi phát sinh quan hệ tình dục, để yên tâm hơn lại...